Sự hình thành vùng đất Biên Hòa, Đồng
Nai
Kể từ năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh
(Kính) vào kinh lý vùng đất hoang hóa phương Nam, ông đặt miền đất mới (nay là
Nam bộ) thành phủ Gia Định gồm hai huyện (Phước Long với dinh Trấn
Biên và Tân Bình với dinh Phiên Trấn) làm mốc. Giữa thế kỷ XVIII, đất Gia Định (Nam bộ ngày nay) chia
làm ba dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (dinh Long Hồ là vùng đất mở rộng
ra, sau thành tỉnh Vĩnh Long - thời điểm trước 01/7/2025). Vùng Hà Tiên xa xôi
đặt làm trấn Hà Tiên do một đô đốc cai quản. Đến năm 1788, chúa Nguyễn chia đất
Gia Định làm bốn dinh: Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn (dinh Long Hồ đổi tên),
Trấn Định (cắt một phần đất dinh Long Hồ từ Cần Thơ xuống Sóc Trăng - thời điểm
trước 01/7/2025) và trấn Hà Tiên có từ trước. Vào thời các chúa Nguyễn (trước
năm 1802), sự thay đổi địa lý hành chính không xảy ra ở huyện Phước Long, chỉ diễn
ra ở huyện Tân Bình do được mở rộng nên chia thành nhiều dinh mới. Đến năm
1808, nhà Nguyễn đổi phủ Gia Định ra Gia Định thành, các dinh (nơi đóng quân)
đổi ra trấn, đơn vị hành chính có tính quân quản cấp tỉnh. Như vậy, dinh Trấn
Biên đổi thành trấn Biên Hòa. Huyện Phước Long thăng làm phủ Phước Long. Bốn
tổng: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An (của huyện Phước Long cũ) nâng
thành bốn huyện. Sau khi người Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, họ cải tổ các đơn vị
hành chính cho phù hợp với chế độ thuộc địa. Sau nhiều lần thay đổi và thăm dò,
cuối cùng trên địa bàn tỉnh Biên Hòa (cũ) có 3 tỉnh mới là Biên Hòa, Thủ Dầu
Một và Bà Rịa. Trong giai đoạn đầu họ bỏ cấp huyện, chỉ giữ lại cấp tổng và cấp
làng xã. Vì gặp khó khăn trong việc điều hành, cuối cùng người Pháp tái lập cấp
huyện và gọi là quận. Đó là các quận Núi Chứa Chan, Phú Riềng, Võ Đắc, Châu
Thành, Long Thành và Tân Uyên.

Tiết mục nghệ thuật tái hiện hình tượng Chưởng cơ Nguyễn Hữu
Cảnh tại lễ giỗ của ông năm 2024
Sự
ra đời của thương cảng Cù lao phố
Cù
lao Phố là khu vực thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương mại. Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên đã nhìn thấy ưu điểm này nên
họ đã di chuyển về đây định cư. Đây là bước chuẩn bị cơ bản nhất, đặt nền móng
cho nhóm người Hoa mở ra sự phát triển thương mại ở Cù lao phố. Nơi đây đã tập
trung đầu mối các nghề thủ công như dệt chiếu, dệt tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu
đường mía lau, làm bột bánh, đồ gỗ,.... Các nghề này đã để lại dấu ấn sâu sắc
trong dân gian, tạo nên những địa danh nổi tiếng như chợ Chiếu, xóm Củi, xóm Lò
Đúc, rạch Lò Gốm,.... Điều này nói lên sự phát triển kinh tế ở thương cảng Cù lao
phố, nhất là kinh tế hàng hóa, tạo tiền đề cho sự hình thành trung tâm thương
mại và giao dịch vào bậc nhất của Nam bộ mà người Hoa gọi là Nông Nại đại phố
trong thế kỷ XVIII.
Biên Hòa và những cuộc khởi nghĩa trong kháng chiến chống
Pháp lần thứ nhất
- Đoàn Văn Cự với phong trào chống thực dân Pháp: Đoàn Văn Cự là anh hùng quê
hương Biên Hòa. Là một trong những
nghĩa sĩ tiêu biểu trong phong trào chống thực dân Pháp ở Nam bộ đầu thế kỷ 20 khi quân Pháp tấn công vào doanh trại của nghĩa quân và đốt
phá kho lương thực. Rừng Bưng Kiệu ngập khói lửa, kín cả một góc
trời. Mười sáu nghĩa quân anh dũng hi sinh. Số còn lại
đều chạy vào rừng. Sau một ngày, giặc Pháp bắt nhân dân khiêng xác tử sĩ và chôn chung
vào một hầm lớn. Cụ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa quân đã
hi sinh anh dũng, nằm chung một ngôi
mộ, làm rạng danh vùng đất Biên Hòa, Đồng Nai.
- Tổ chức Trại Lâm Trung:
Là một tổ chức yêu
nước (Hội kín) rất phổ biến và
phát triển ở Nam bộ vào đầu thế kỷ 20. Mục
đích của các này là tập họp nhân dân, xây dựng lực lượng để kháng chiến chống
thực dân Pháp. Tại Biên Hòa, một
nhóm người yêu nước, tinh thông võ
nghệ như Tư Hy, Tư Hổ, Ba Hầu, Hai Lực, Bảy Đen, Ba Vạn, Hai Cầm,… thành lập và đóng căn cứ tại xã
Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu trước đây). Trại Lâm Trung tổ chức luyện tập võ nghệ, được trang bị vũ khí thô sơ
như gậy, dao, gươm và một ít súng điểu thương
để hoạt động.
- Phong trào “Phú Riềng đỏ”: Là một trong những phong trào công nhân đầu tiên tại Việt Nam được thực
hiện bởi công nhân cao su tại đồn điền Phú Riềng, Biên Hòa (trước ngày
01/7/2025 thuộc địa phận tỉnh Bình Phước). Phong trào này
đã gây tiếng vang lớn trong lịch sử và là mốc mở đầu cho các phong trào công
nhân khác ở Việt Nam chống lại thực dân Pháp trong
suốt thập niên những
năm 1930 như cuộc đình công lớn tại Nhà máy sợi
Nam Định và Phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, 5.000 công nhân cao su đồn điền Phú Riềng đã nổi dậy đấu tranh với các yêu
sách. Mặc dù có một số tổn thất
nhưng cuộc đấu tranh của
công nhân cao su Phú Riềng đã giành được thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh lớn
nhất trong số các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lúc bấy giờ, tạo
tiếng vang trong cả nước.
- Chi bộ Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên
Hòa: Sự ra đời của chi bộ Bình Phước
- Tân Triều và các cơ sở của Đảng giữa năm 1935 đánh dấu
một mốc lịch sử quan trọng, đó là bước phát triển
mới của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu
tiên đã được thành lập trên địa bàn tỉnh Biên Hòa (Đồng Nai hiện nay), là hạt
nhân lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương và là nòng cốt để hình thành tổ
chức Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa sau này.

Một góc thương cảng Cù Lao Phố (nay thuộc phường Trấn
Biên, tỉnh Đồng Nai)
Biên Hòa trong kháng chiến chống Pháp lần thứ hai
- Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu: Là trường quân chính
đầu tiên của Biên Hòa và miền Đông Nam bộ đã đào tạo trên 100 cán bộ quân sự và
chính trị. Đây là lực lượng nòng cốt để phát động phong trào du kích ở Biên Hòa
và một số tỉnh miền Đông. Đây cũng là những cán bộ quân đội nòng cốt của nhiều
đơn vị vũ trang như chi đội 10, trung đoàn 310 Biên Hòa, chi đội 16, trung đoàn
307 Bà Rịa, trung đoàn 812 Bình Thuận..., chính là tiền thân của trường Quân
chính quân khu 7 trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Biên Hòa - nơi sản sinh cách đánh đặc công: Kỹ thuật đặc công từ
Biên Hòa được phổ biến ra khắp miền khu vực miền Đông, góp phần đánh bại chiến
thuật Đờ La-tua của Pháp. Từ 1952, cách đánh đặc công được phổ biến về miền Tây
Nam bộ.... Nhiều trận đánh đặc công đã đạt hiệu suất cao, nhất là đánh vào kho
tàng, cơ quan đầu não của địch như kho Phú Thọ, sân bay Gia Lâm, Cát Bi, đánh
đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ... Từ Biên Hòa, cách đánh đặc công đã ra
đời, đó là kết quả của phong trào du kích phát triển cao với tinh thần sáng tạo
trong chiến đấu và chế tạo vũ khí thích hợp. Biên Hòa cũng là nơi xây dựng đơn
vị đặc công đầu tiên ở Nam bộ (ngày 19-3-1948) mà sau này được lấy làm ngày
truyền thống của binh chủng Đặc công.
- Biên Hòa là địa
bàn có căn cứ Chiến khu Đ, là căn cứ lớn và quan trong tồn
tại qua hai cuộc kháng chiến, đóng vai trò hậu cứ và bàn đạp tiến công của quân
và dân ta trong suốt thời kỳ chống thực dân Pháp.

Một buổi tưởng niệm trước Tượng đài Phú Riềng Đỏ, Đồng Nai
nhân ngày truyền thống Ngành Cao su
Biên Hòa trong kháng chiến chống Mỹ
-
Nơi diễn ra cuộc nổi dậy phá khám thành công lớn trong lịch sử hiện đại Việt
Nam, ngày 02/12/1956. Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp đã giúp hơn 400 chiến
sĩ, cán bộ được trở về với cách mạng, bổ sung lực lượng cho cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. Cuộc phá khám Tân Hiệp
là niềm tự hào của những thế hệ chiến sĩ cách mạng, đã và đang dọi đường cho
thế hệ trẻ Việt Nam nối tiếp cha anh, viết tiếp trang sử hào hùng của vùng đất
“gian lao mà anh dũng” trong công cuộc đấu tranh và xây dựng Tổ quốc ngày nay.
- Biên Hòa là nơi diễn ra trận đầu diệt Mỹ và trận đánh đầu
tiên vào sân bay Biên Hòa. Trận đánh tại Nhà
Xanh (phường Trấn Biên ngày nay) vào đêm ngày 7, rạng sáng ngày 08/7/1959 là
trận đánh Mỹ đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Trận tập kích bằng pháo vào sân bay Biên Hòa là
đòn đánh bất ngờ, gây choáng váng cho địch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.

Di tích Văn miếu Trấn Biên - Biểu tượng lịch sử, văn hóa,
giáo dục tỉnh Đồng Nai
Và Biên Hòa ngày nay
Người Đồng Nai hôm nay vẫn mang trong mình truyền
thống hơn 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với tinh thần
đoàn kết, lao động sáng tạo không ngừng, nhân dân Đồng Nai đã xây dựng nên vùng
đất phát triển cả về kinh tế và văn hóa - xã hội. Nơi đây đã để lại dấu ấn khá
đặc sắc về lịch sử, văn hóa, truyền thống đấu tranh kiên cường chống ngoại xâm
đáng tự hào. Đó cũng là nét đẹp truyền thống văn hóa, tinh thần yêu nước của
người Đông Nai nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Ngày
12-6-2025, Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Theo đó,
sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của tỉnh Bình Phước và tỉnh
Đồng Nai thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Nai. Sau khi sắp xếp, tỉnh Đồng
Nai có diện tích tự nhiên là 12.737,18 km2, quy mô dân số là
4.491.408 người. Tiếp theo đó, ngày 16/6/2025, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết 1662/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp
xã của tỉnh Đồng Nai năm 2025.
Sau sắp xếp, hiện tỉnh Đồng Nai còn 95 đơn vị cấp xã, là một trong những tỉnh
có quy mô kinh tế trong top đầu cả nước.

Một góc phường Trấn Biên, tỉnh Đồng Nai ngày nay
Biên Hòa ngày nay không còn là một đơn vị hành
chính cấp huyện nhưng những địa danh lịch sử, văn hóa và ký ức về một vùng đất
vẫn còn nguyên vẹn cùng con người hiền hòa đã, đang và tiếp tục gắn bó với vùng
đất thân yêu này.