Đó là di tích lịch sử nằm trong một công viên nhỏ
tọa lạc giữa giao lộ Nguyễn Ái Quốc - 30/4, trung tâm thành phố Biên Hòa
đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp
hạng cấp Quốc gia (Quyết định số 1288/VH-QĐ ngày 16/11/1988). Đây là
một công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa dân tộc với hình dáng
giống như Ngọ môn - Huế, thời nhà Nguyễn. Du khách tình cờ ngang qua
có thể lầm tưởng đây là nơi thờ một vị anh hùng dân tộc nào đó, nhưng
nếu đọc kỹ những dòng chữ được khắc trên trang vở bằng đá giữa công
viên, sẽ nhận ra rằng di tích tồn tại như một minh chứng cho tội ác
và thủ đoạn của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam trong một
thời kì lịch sử đau thương của dân tộc, thời kỳ mà nhân dân ta phải
chịu biết bao cay đắng dưới ách nô dịch thực dân.
Công trình kiến trúc đặc sắc này được xây dựng và
khánh thành vào năm 1923. Theo các tư liệu lịch sử, “Đài Kỷ niệm” ban
đầu có tên gọi chính thức là “Đài Kỷ niệm người Việt trận vong”.
Trong diễn văn của viên công sứ Pháp tại buổi lễ khánh thành thì mục
đích của việc xây dựng đài là để tưởng nhớ “những thanh niên bản xứ tình nguyện rời bỏ quê hương lên
đường sang Pháp để chiến đấu bảo vệ “Mẫu Quốc” và đã hiến thân cho
sự nghiệp cao cả thiêng liêng ấy!”.
Lời lẽ trong bài diễn văn khiến cho những người hiểu rõ bản chất
bọn thực dân không khỏi nực cười, nhưng vì sao những người Việt Nam,
những thân phận bị nô dịch, lại có thể tình nguyện hiến thân cho
chính nước Pháp là kẻ nô dịch mình?
Di tích “Đài Kỷ niệm” nằm giữa công
viên giao lộ Nguyễn Ái Quốc - 30/4, thành phố Biên Hòa
Để trả lời cho câu hỏi ấy, bánh xe lịch sử sẽ phải
quay ngược thêm về thời gian 9 năm trước đó, (năm 1914), khi mà cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ gieo rắc biết bao tang thương cho
nhân loại. Những kẻ gây ra chiến tranh dù là bất kỳ nước nào, ở bất
kỳ phe nào cũng có một mục đích lớn nhất là hạ gục đối thủ để
mình có thể làm chủ hệ thống thuộc địa rộng lớn với nguồn nguyên
liệu dồi dào, nhân công rẻ mạt và thị trường béo bở. Vào thời điểm
đó, Pháp đang là một nuớc vô cùng giàu có về thuộc địa (đứng thứ
hai thế giới, sau Anh), hệ thống thuộc địa của Pháp rải khắp châu Á
và châu Phi, trong số đó có bán đảo Đông Dương. Để loại bỏ đối thủ
nguy hiểm, bảo vệ được hệ thống thuộc địa và để khẳng định sức
mạnh của mình, Pháp cũng như các nuớc tham chiến đã ra sức huy động,
cưỡng bức sức người, sức của từ trong nuớc và từ các nuớc thuộc
địa. Đây là cuộc chiến tranh đế quốc xâm lược và phi nghĩa, nhằm
thỏa mãn cơn khát bá chủ thế giới của giai cấp thống trị ở các
nước đế quốc, nhưng nạn nhân của nó thì lại là đông đảo nguời dân vô
tội, giai cấp vô sản ở ngay tại chính quốc và cả ở các nước thuộc
địa, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Cuốn vở bằng chất liệu đá tại di
tích khắc chữ là minh chứng cho tội ác, thủ đoạn của thực dân Pháp đối
với nhân dân Việt Nam
Đến lúc này, những nguời dân vô tội ở Việt Nam, vốn
đã phải gồng mình gánh chịu vô số thứ thuế vô lý và các hình thức
bóc lột khác trong cuộc khai thác thuộc địa, nay lại thêm oằn lưng
bởi gánh nặng chiến tranh mà Pháp đã trút lên đầu nhân dân ta. Trong cuộc
chiến tranh phi nghĩa ấy, đã có “bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt
chân lên đất Pháp và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn
trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa” (“Bản án chế độ thực dân Pháp” - Nguyễn
Ái Quốc). Thật là một con số vô cùng đau xót. Nhưng vào thời
điểm mà đất nước đang còn dò dẫm tìm con đường giành độc lập, ngay
cả lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lúc ấy vẫn còn đang bôn ba nơi xứ người
để tìm con đường cứu nước đúng đắn, thì liệu trong bảy mươi vạn
nguời ra đi ấy có ai biết mình đang ra đi chiến đấu vì lẽ gì? Chỉ
có điều chắc chắn họ không “tình nguyện” lên đường “chiến đấu bảo
vệ Mẫu Quốc” như lời viên công sứ Pháp đã huênh hoang. Bởi những
người nông dân chân chất, hiền lành khi đứng trước những kẻ xâm lược
hung bạo đã từng: “Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không/Xô cửa
xông vào liều mình như chẳng có” (“Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - Nguyễn Đình Chiểu) thì làm sao có
thể tin được họ lại tình nguyện lên đường hiến thân cho chính đất
nuớc của những kẻ xâm lược ấy. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc cũng đã vạch trần bộ mặt giả dối của
chính quyền thuộc địa Pháp bằng những hình ảnh có thật và những
lập luận sắc bén: “Nếu quả thật người Việt Nam phấn khởi đi lính
đến thế, tại sao lại có cảnh tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lỵ,
tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở
Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng
sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở
Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là biểu hiện
của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?. Như vậy
tất cả đều đã rõ ràng, 70 vạn dân đều là những người bị cưỡng
bức, bị ép buộc phải ra trận, dùng máu thịt của mình làm bia đỡ
đạn cho Pháp. Và “Đài Kỷ niệm” do chính quyền thuộc địa Pháp xây
dựng nên nhằm mục đích lừa mị dân chúng đã trở thành bản cáo trạng
hùng hồn cho chính tội ác của chúng.
Đến ngày, “Đài Kỷ niệm” vẫn được bảo tồn, phát huy
giá trị, di tích vẫn cổ kính với kiểu dáng văn hóa dân tộc, vẫn trầm
mặc với tấm bia đá có khắc tên một số thanh niên trong tám vạn thanh
niên vĩnh viễn không được trở về, vẫn làm nhức nhối lòng người về
một quá khứ đau thương dân tộc dưới ách thống trị ngoại bang. Những người
đến thăm di tích đều thắp một nén nhang trước tấm bia đá, để tưởng nhớ
về tám vạn con nguời đã ngã xuống mà máu xương của họ đã tố cáo
một cách rõ ràng nhất về tội ác của thực dân, để không bao giờ quên
một trang sử đầy máu và nước mắt, để tràn ngập niềm tự hào cho
những chiến công phá ách nô lệ của ông cha ta trong những giai đoạn
tiếp theo và để ý thức việc bảo vệ độc lập dân tộc Việt Nam.
ThS.
Trọng Tá