“Có
thể khẳng định, đồng bào người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng trở thành nguồn
lực quan trọng, cả về nguồn lực kinh tế, nguồn lực tri thức và nguồn lực “mềm”,
đóng góp cho sự phát triển của đất nước”, đó là chia sẻ của Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Quang Hiệu, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.
Cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục hội nhập sâu rộng vào xã hội sở tại
trong tất cả các lĩnh vực và là nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự phát triển
của đất nước - cả về nguồn lực kinh tế, nguồn lực tri thức và nguồn lực “mềm”,
nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Về kinh tế, theo Ngân hàng Thế giới,
từ năm 2010 đến nay, Việt Nam luôn là một trong số quốc gia nhận nhiều kiều hối
nhất. Năm 2021, mặc dù bị tác động mạnh mẽ của dịch COVID-19, nhưng lượng kiều
hối gửi về Việt Nam vẫn tăng khoảng 10% so với năm 2020. Tổng lượng kiều hối
chuyển về nước trong những năm qua đang hướng tới mốc 200 tỷ USD.
Người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia chương trình Xuân Hữu nghị năm 2021 tại Đồng
Nai, dâng hương tại Văn miếu Trấn Biên.
Về
thương mại, hàng trăm nghìn doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài đã tích cực
tham gia liên kết, thúc đẩy xuất nhập khẩu, góp phần thực hiện cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trong cộng đồng.
Trong
lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao, thành
tựu của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng đáng kể. Theo ước tính,
có khoảng 500 nghìn đến 600 nghìn doanh nhân, trí thức có trình độ cao, chiếm
10-12% trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó tập trung ở các
quốc gia phát triển như Mỹ (với khoảng 50%), Pháp, Australia, Canada, Nga và
Đông Âu…
Trí
thức người Việt Nam ở nước ngoài đã được tập hợp, tham gia “hiến kế” cho nhiều
vấn đề quan trọng trong nước, như công nghệ, trí tuệ nhân tạo, khởi nghiệp và
đổi mới sáng tạo, phòng chống dịch bệnh, mô hình phát triển kinh tế…. Nguồn lực
“mềm” của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã, đang và sẽ góp phần giúp
nâng cao hình ảnh và vị thế của đất nước, thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các
quốc gia trên thế giới. Bởi vai trò, vị thế và ảnh hưởng của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài ở sở tại ngày càng được nâng cao và mở rộng, tham gia sâu
rộng vào mọi mặt đời sống ở sở tại, từ chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ,
văn hóa nghệ thuật….
Đặc
biệt, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn dành tình cảm gắn bó với quê
hương đất nước. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, dù bà con cũng gặp không ít
khó khăn nhưng đã rất nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc. Trong 02 năm 2020 – 2021, bà con đã quyên góp ủng hộ trong
nước khoảng 115 tỷ đồng cùng nhiều trang thiết bị y tế cho công tác phòng,
chống dịch và Quỹ vaccine phòng COVID-19. Bên cạnh đó, các chuyên gia y tế, bác
sỹ kiều bào ở nhiều nơi tích cực hiến kế, chia sẻ kinh nghiệm hoặc tình nguyện
về nước tham gia chống dịch.
Ngày 31/12/2021, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 169/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ về công
tác người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2021 – 2026, trong đó đề ra những
nhiệm vụ và giải pháp nhằm cụ thể hóa Kết luận số 12-KL/TW
của Bộ Chính trị. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục được
triển khai mạnh mẽ và toàn diện hơn theo yêu cầu của Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII và Kết luận 12-KL/TW, nhằm thể hiện rõ hơn tình cảm và
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để bà con kiều bào hướng về
quê hương.
Để phát huy hiệu quả hơn nữa nguồn
lực của kiều bào đóng góp vào quá trình phát triển đất nước, cần triển khai một
số biện pháp cụ thể. Thứ nhất, đẩy mạnh phổ biến, quán triệt, tuyên truyền sâu
rộng những chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài; trên cơ sở đó xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương
trình hành động, bao gồm Chương trình hành động của Chính phủ về công tác người
Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2021-2026.
Hai
là, đổi mới, đa dạng hóa hình thức, linh hoạt trong biện pháp triển khai vận
động người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó tập trung vào thế hệ trẻ, những
người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng; qua đó nuôi dưỡng, tăng cường tình
cảm gắn bó với quê hương, đồng thời nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm
trong việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Ba
là, xây dựng các biện pháp đồng bộ, củng cố, hỗ trợ các hội đoàn người Việt Nam
ở nước ngoài. Phát huy vai trò của Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài
và các hội thân nhân trong việc duy trì kênh thông tin về tình hình kiều bào ở
sở tại và kết nối giữa kiều bào với chính quyền địa phương. Nghiên cứu xây dựng
cơ chế, kế hoạch phối hợp thường xuyên giữa các tổ chức chính trị - xã hội
trong nước với các hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài.
Bốn
là, triển khai các biện pháp tổng thể hỗ trợ đồng bào, nhất là ở những địa bàn
khó khăn, có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế,
tuân thủ pháp luật và hội nhập thuận lợi vào xã hội sở tại
Năm
là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, triển
khai đồng bộ chính sách liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài. Cải cách thủ
tục hành chính theo hướng tinh gọn, minh bạch, hiệu quả.
Sáu
là, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích
cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thành lập và hỗ trợ
nâng cao vị thế của các mạng lưới, hiệp hội doanh nhân, doanh nghiệp, hiệp hội
trí thức ở sở tại. Tăng cường tổ chức các diễn đàn, hội thảo kết nối kiều bào
với trong nước, qua đó, thông tin về các chủ trương, chính sách, môi trường đầu
tư, hoạt động khoa học và công nghệ, các dự án kiều bào có thể tham gia đóng
góp. Xây dựng cơ sở dữ liệu và mạng lưới kết nối doanh nhân, trí thức kiều bào.
Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các
sáng kiến, ý kiến đóng góp của kiều bào. Tiếp tục phát huy vai trò của người
Việt Nam ở nước ngoài trong công tác đối ngoại nhân dân.
Bảy
là, đa dạng hóa các hoạt động hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn tiếng
Việt, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc; giải quyết
kịp thời các vấn đề liên quan đến nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của
cộng đồng.
Tám
là, đổi mới nội dung, phương thức và tư duy về công tác thông tin đối ngoại đối
với người Việt Nam ở nước ngoài. Đa dạng hóa phương thức chuyển tải thông tin, chú
trọng thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác nội dung trên nền tảng số.
Chín
là, tiếp tục xây dựng cơ chế phối hợp và kiện toàn tổ chức bộ máy; tăng cường
nguồn lực thực hiện công tác về người Việt Nam ở nước ngoài.
Văn
phòng – Thông tin đối ngoại