Sẩm tối, nhận lịch gác xong, Đào rủ tôi ra
ngoài thị xã đến nhà chị Phên chơi. Chị Phên là y sĩ người Campuchia, Đào quen hồi
đầu năm 1979. Đào kể, chồng chị Phên là giáo sư dạy tại Trường đại học y khoa
Phnôm Pênh bị Pôn Pốt giết năm 1978, khi chị vừa sinh bé Pheng được bốn ngày..
Bước
từ trong nhà ra là một cô bé trạc mười hai, mười ba tuổi, dáng người nhỏ nhắn, nước
da trắng, đôi mắt đen sáng, gương mặt rất xinh xắn:
-
Tèng ố pu. Chùm
riếp xua coong tóp Việt Nam!
(Chào các chú bộ đội Việt Nam ạ?)
Cô bé nhoẻn miệng cười lễ phép. Rồi chợt nhận ra Đào,
cô reo lên:
- Ua, coong tóp Đào, coong tóp Đào, chè Phên na! (Ủa, bộ đội Đào! Bộ đội Đào, chị Phên ơi!)
Một người phụ nữ từ trong nhà bước rảo ra. Chị mặc
chiếc áo sơ mi trắng, quấn xà rông màu tím than, dáng thon, gọn.
Chị niềm nở:
- Chùm riếp xua tèng ố boòng coong tóp Việt Nam.
Coong tóp Đào tâu na du ná? (Chào các anh
bộ đội Việt Nam.
Bộ đội Đào đi đâu mà lâu quá vậy?)
- Đi học chị Phên ơi! Học về làm thầy thuốc, nay ra
trường về đây phục vụ nè.
Trong lúc Đào nói chuyện cùng chị, tôi lặng lẽ quan
sát. Chị khoảng ba lăm, ba sáu tuổi, nước da trắng, gương mặt trái xoan rất ưa
nhìn. Đặc biệt, chị có đôi mắt đen dài thăm thẳm. Chị vẫn đang còn đẹp, vẻ đẹp
của người phụ nữ đang tuổi sung sức. Bà cụ mẹ chị, tóc bạc trắng, gương mặt
hiền hậu ngồi ở trên giường phía góc nhà thỉnh thoảng lại góp vào câu chuyện. Cụ
biết khá nhiều tiếng Việt Nam
cho nên có thể hỏi và trả lời chúng tôi những câu hỏi thông thường. Cô bé vừa
ra đón chúng tôi tên là Pha-ni, 13 tuổi, là em ruột chị Phên. Cả nhà 11 anh chị
em, bị Pôn Pốt giết gần hết, chỉ còn hai chị em sót lại.
Căn nhà chị Phên đang ở nhỏ, khá chật nhưng không bề
bộn bởi sự sắp xếp khá ngăn nắp. Tôi nhìn những chiếc gối ôm, chăn, nệm mà cảm
thấy ấm áp không khí gia đình.
Chợt phía ngoài cổng có tiếng líu ríu, rồi hai cô gái
khoảng mười sáu, mười bảy tuổi từ ngoài bước vào. Hai cô đều có gương mặt giống
hệt chị Phên, dáng cao dong dỏng. Chị Phên nói, đây là hai cháu Pha-ri và Chăn
Thu, con gái đầu và con gái kế của chị vừa đi cấy ở đồng xa về. Pha-ri mười bảy
tuổi, là y tá đã đi làm trong bệnh viện tỉnh, Chăn Thu còn đang đi học. Hai cô
tranh thủ ngày nghỉ đi cấy giúp mẹ. Nhận ra Đào, hai cô lại ồn ã, líu ríu một
lúc lâu. Pha ri thì có vẻ ngượng ngập, lúng túng. Còn Chăn Thu - cô em cứ ôm lấy
vai Đào nũng nịu: Chú Đào hẹn về Việt Nam sẽ mang quà sang cho chúng cháu mà,
quà đâu rồi?
Khi chúng tôi ra về thì trời đổ mưa to. Bà cụ mẹ chị
Phên lấy cho chúng tôi mượn một tấm ni lông che tạm. Trời tối mù mịt. Thỉnh
thoảng lại gặp một toán bộ đội cách mạng Cămpuchia súng đạn lịch kịch đi tuần
tiễu.
*
* *
Phải đến ba bữa sau, chúng tôi mới trở lại căn nhà nhỏ
để trả lại tấm ni lông. Lần này thì chỉ gặp bà cụ, bé Pha-ni cùng các cháu nhỏ.
Ba mẹ con chị Phên đi cấy ở đồng xa chưa về. Đặc biệt, tôi mong gặp, mong được
nói chuyện với Pha-ri là cô gái mười bảy tuổi con gái lớn của chị Phên mới
thoáng gặp lần đầu. Đào hơn tôi ba tuổi, đi bộ đội trước ba năm, tham gia chiến
đấu giúp bạn và ở đây ngay từ những ngày đầu giải phóng (7/1/1979) nên rất bạo
dạn và quen thuộc. Đào nói, hồi đó Pha-ri còn bé bằng bé Pha-ni bây giờ. Hai
chú cháu thường dắt tay nhau đi dạo phố. Đào còn dẫn cô bé vào doanh trại của
bộ đội chơi. Cô bé rất yêu quý các chú bộ đội Việt Nam, những người vừa đem xương
máu trả lại cho gia đình các cô cuộc sống bình thường của một con người. Đào
hẹn, khi nào Pha-ri lớn sẽ đưa Pha-ri sang Việt Nam chơi… Nhưng đấy là chuyện
của ba năm về trước. Bây giờ Pha-ri đã là một cô gái mười bẩy tuổi, nhiều e
thẹn, ngượng ngập. Đào thì không quan tâm đến điều đó, hắn đã có một đối tượng
khác. Còn tôi:
Em choàng lên
cổ tôi chiếc khăn cà-ma
“Tặng bòong
đấy!”- tiếng em bập bẹ
Nhận làm sao?
Trả thì không nỡ
Tôi cầm chiếc
khăn, cầm cả ánh mắt người
Đấy là những vần thơ tôi tưởng tượng viết ra bởi đầu
óc đầy mơ mộng của mình, chứ thực ra chưa quen biết được một cô gái Campuchia
nào những ngày tháng ấy.
Và rồi, tôi cũng được gặp lại Pha-ri, nhưng gặp trong
một hoàn cảnh khác đầy mỏng manh, bất trắc.
*
* *
Chiều chủ nhật, chúng tôi tha thẩn đi
dọc thị xã Côngpông Chơnăng. Phố xá theo hướng bờ sông Tôn lê Sáp mở ra thật
rộng. Xen lẫn giữa những khu nhà cao 4, 5 tầng là những căn nhà dựng toàn bằng
lá thốt nốt. Lá thốt nốt kết thành từng tấm lợp mái. Tường nhà được quây bằng lá
thốt nốt đan rất đẹp. Một ngôi nhà còn chăng đèn kết hoa - dấu vết của tiệc vui
đêm qua, chắc là đám cưới hay đám mừng gì đó. Chúng tôi ghé vào một khu nuôi cá
sấu. Những con cá sấu có bộ da sù sì, trông gớm ghiếc với hai hàng răng lởm
chởm nhọn hoắt.
Có hai em bé, khoảng bảy, tám tuổi người ở Tân Châu -
An Giang, theo cha mẹ sang đây đánh cá. Được nghe tiếng Việt líu ríu yêu thương
ở đây sao mà thân thương đến thế. Sông Tôn lê Sáp phẳng lặng như đang nằm ngủ
trong màn mưa chiều. Một vài trái núi xanh mờ đằng xa, đỉnh nhọn hoắt choàng
mây trắng. Hai cô gái người Campuchia ngồi mổ cá để phơi bên bờ sông. Đống cá cá
tra cao ngồn ngộn như đống rơm, đống rạ ở quê nhà. Ở đất nước này, sản vật
nhiều nhất có lẽ là cá, đến mùa đánh cá có thể ăn cá thay cơm. Vừa về đến nhà
thì nghe anh Đồng phân công tối nay tôi sang trực bên trạm phẫu sư đoàn.
Bảy giờ tối, tôi sang trạm phẫu sư đoàn cách đó khoảng
hai trăm mét. Bác sĩ Lê, bác sĩ Trung cùng mấy y sĩ, y tá đang ngồi uống trà. Bác
sĩ Lê nói: Cậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe, nếu đêm nay có thương thì cùng Tẫm phụ mổ với anh. Mới về được ít ngày nhưng tôi
đã nghe tiếng tăm của bác sĩ Lê. Anh ngoài ba mươi tuổi, người phố Hàng Đào, Hà
Nội, dáng người cao, đẹp trai, tài hoa. Ngón đàn ghi-ta của anh thì khỏi phải
nói, không thua những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Trong các đợt hội diễn quân đoàn,
hội diễn toàn quân, anh luôn giành giải cao khi biểu diễn độc tấu ghi-ta. Nhưng
nghề chính của anh là bác sĩ phẫu thuật lại còn tài hoa hơn thế. Những thương
binh trao vào tay anh là yên tâm, đường đạn dù đi đến đâu, làm rách bao nhiêu phủ
tạng, anh đều tìm ra hết. Những ca cắt cụt chi cũng thế. Rất gọn và đẹp. Đường
chỉ khâu vết mổ của anh cũng rất đẹp, không bao giờ để lại sẹo xấu. Mọi người
nói đùa, sau này hết giặc, nếu anh chuyển sang dân sự mà phẫu thuật thẩm mỹ cho các bà các cô thì khỏi chê...
Tôi vừa ngồi hóng chuyện, vừa lơ mơ nghĩ về bác sĩ Lê
như thế, bỗng có tiếng chuông điện thoại. Tẫm ra nghe xong, quay vào báo cáo.
Có một ca phụ nữ Cămpuchia bị trúng đạn lạc chiều nay, đã đưa vào bệnh viện của
bạn nhưng họ điện chuyển sang nhờ mình can thiệp phẫu thuật giúp. Bác sĩ Lê
đứng ngay dậy: “Chuẩn bị phòng mổ, mọi người vào vị trí công tác!”.
Khi chúng tôi chuẩn bị phòng mổ xong thì nạn nhân cũng
vừa được chuyển đến. Trên băng ca là một cô gái trẻ, ngực và bụng quấn băng
trắng toát nằm mê man. Tôi bước lại gần. Ánh đèn măng-xông soi vào gương mặt cô
gái trông như thoáng gặp ở đâu? Có tiếng chân người bước lại gần. Tôi quay lại:
Ủa chị Phên, sao chị lại ở đây?
- Chú
ạ, cháu Pha-ri đấy. Chị Phên nói giọng nghèn nghẹn. Chiều nay cháu đang đi cấy
với tôi thì bị một viên đạn lạc ở đâu bắn tới. Mong các chú cứu cháu.
-
Chị yên tâm. Không sao đâu. Mai mốt là cháu lại khỏe ngay đấy mà - anh Lê bước
lại. Và anh ra hiệu cho các hộ lý đưa ngay Pha-ri vào phòng phẫu thuật.
*
* *
Ca mổ bắt đầu từ chín giờ tối. Y sĩ Doãn phụ trách gây
mê. Bác sĩ Lê mổ chính. Bác sĩ Trung phụ mổ. Bác sĩ Lê mở ổ bụng. Y sĩ Tẫm cầm
kìm Kelly kẹp cầm máu chảy ra nơi vết mổ. Tôi phụ y sỹ Tẫm đưa dụng cụ. Hai bác sĩ lần tìm khắp vùng
ổ bụng nơi viên đạn đi vào. Viên đạn làm rách mấy đoạn ruột non, xuyên lên dạ
dày. Hai bàn tay khéo léo của các bác sĩ khâu hết các vị trí thương tổn. Lúc
đầu tôi cũng nghĩ là một, hai tiếng là xong. Không ngờ đường đi của viên đạn
rất phức tạp. Tôi và Tẫm đứng phục vụ mệt nhoài. Tẫm đã có kinh nghiệm, chỉ cần
anh Lê, anh Trung đưa mắt là biết đưa dụng cụ gì, làm việc gì. Hai chiếc quạt điện
chạy hết công suất mà mồ hôi vẫn lấm tấm trên vầng trán của các anh. Ở trong
nước vừa đưa sang ít máu khô (huyết tương), anh Lê bảo đem truyền cho Pha-ri. Pha-ri
đang cắm cúi cấy lúa. Viên đạn từ xa bắn tới xuyên qua ổ bụng nhưng vì đuối tầm
nên mắc kẹt trong đó. Hơn hai tiếng đồng hồ trôi qua vẫn chưa tìm thấy đầu đạn.
Anh Lê quay ra góc phòng hội ý với bác sĩ Trung. Rồi hai người quay ra lại tiếp
tục công việc.
Anh Lê quyết
định mở lồng ngực. Lại săm soi, kiếm tìm. Kíp mổ vẫn hoạt động rất đều tay. Pha-ri
vẫn nằm thiêm thiếp. Em không biết để cứu tính mạng của em, các thầy thuốc Việt
Nam
đã phải vất vả biết chừng nào. Cả phòng mổ im phăng phắc, một không khí hồi hộp
đến căng thẳng. Bác sĩ Lê, bác sĩ Trung vẫn điềm tĩnh lần tìm. Rồi, bỗng bác sĩ
Lê dừng tay tìm kiếm. Anh khẽ nói: “Đây rồi!” và gắp ra một cái đầu đạn vứt “coong”
vào chiếc khay i-nox. Bác sĩ Trung cười. Viên đạn từ ổ bụng xuyên thủng cơ
hoành xuyên lên phổi, nằm lọt trong lá phổi
trái. May mà, nó chỉ đi lệch một chút nữa thì chạm tim. Chúng tôi thở phào như
trút đi được một gánh nặng.
- Kim, chỉ - bác sĩ Lê nói.
Tôi vội vàng đưa những chiếc kim đã luồn chỉ tự tiêu
sẵn cho anh.
Khi bác sĩ Lê và bác sĩ Trung khâu xong những đường chỉ
cuối cùng đóng ổ bụng thì đã gần một giờ sáng. Đêm đã nghiêng sang phía bên kia
của một ngày mới. Có tiếng lá rơi lắc rắc nơi những cây dầu ngoài vườn. Chúng
tôi bước ra bên ngoài đón làn gió sớm mát lành. Gần bốn tiếng đồng hồ đã trôi
qua.
*
* *
Đang ở tuổi ăn tuổi lớn “mười bẩy bẻ gãy sừng trâu”
nên sức khỏe Pha-ri hồi phục rất nhanh. Ba ngày sau em đã ngồi dậy được. Một
tuần thì em tự đi lại được. Đào bận theo đội công tác xuống phum xa, khám sức
khỏe, cho thuốc bà con, nên chỉ kịp chạy đến nhìn thoáng Pha-ri một cái rồi vội
vã đi ngay. Chị Phên chăm sóc Pha-ri và luôn miệng cảm ơn bộ đội Việt Nam đã
cứu sống con gái chị. Tôi được điều hẳn sang bên Trạm phẫu, nên rảnh việc lại
chạy vào thăm Pha-ri. Em đã nhận ra anh bộ đội Việt Nam đến nhà mình bữa nọ và biết tôi
đã phục vụ trong ca mổ của em. Điều này trong đạo Phật gọi là có duyên với
nhau. Lúc này tôi mới được nhìn kỹ Pha-ri. Em có hai lúm đồng tiền rất xinh. Đôi
mắt đen lóng lánh ánh nhìn nguyên sơ, đằm thắm. Chính Pha-ri đã dạy tôi thêm
nhiều tiếng Campuchia để có thể tâm sự, giãi bày. Tôi nói: “Pha-ri cũng là y
tá. Mẹ Phên cũng là thầy thuốc đã từng chăm sóc bộ đội Việt Nam, thế là huề nhé.” Pha-ri nói:
“Tụi Pôn Pốt ác lắm, chúng giết bố em, giết hết các dì, các cậu của em, đày đọa
gia đình em. Bộ đội Việt Nam
đã cứu sống gia đình em và bao gia đình người Cămpuchia khác. Bộ đội còn cứu
sống em lần thứ hai nữa, làm sao em quên được”.
Khi đội công tác của Đào trở về thì Pha-ri đã xuất
viện, về tiếp tục làm việc ở bệnh viện của bạn. Một buổi chiều chủ nhật, cả ba chúng
tôi lại đi dạo dọc bờ sông Tôn lê Sáp. Đào trêu: “Tôi chịu ông đấy thôi, ông
làm công tác dân vận giỏi hơn tôi nhiều”. Pha-ri cười, hai má đỏ ửng, bẽn lẽn:
“Chú Đào, toàn nói chuyện đâu đâu.” Lúc này trông em xinh đến lạ lùng. Tôi thầm
ước, một ngày nào hết giặc, đất nước bạn trở lại thanh bình, dáng người xinh
kia xuất hiện ở thành phố Biên Hòa thân yêu…
Công pông chơ năng tháng 10 năm
1980
T.P Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2011