Chủ quyền quốc gia lãnh
thổ được xác lập và thực thi bởi Nhà nước, do vậy, những tài liệu nguyên gốc
của Vương triều Nguyễn và trực tiếp của các vua nhà Nguyễn về tổ chức, chỉ đạo
và thực thi các hoạt động chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa là những tài liệu,
chứng cứ pháp lý quan trọng nhất của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trong các tập Châu bản triều Nguyễn còn lại, có đến
gần hai chục văn bản phản ánh hoạt động chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và
Trường Sa dưới các triều vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Chẳng hạn
tờ tấu của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) về việc đoàn
khảo sát Hoàng Sa của Đỗ Mậu Thưởng, Lê Trọng Bá báo cáo đã đến được 25 đảo
(trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được. Đoàn còn mang
về 4 bức hoạ và 1 quyển nhật ký ghi chép.

Đảo Trường Sa lớn - nguồn baodaknong.org.vn
Đây là nguồn tư liệu có
giá trị lịch sử và pháp lý cao nhất để khẳng định một cách trực tiếp và mạnh mẽ
về chủ quyền của Vương triều Nguyễn Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, mà chắc
chắn không có một nước thứ hai nào trong khu vực lại có được nguồn tư liệu như
thế. Quyết định của UNESCO ngày 14 tháng 5 năm 2014 công nhận Châu bản triều
Nguyễn là Di sản tư liệu và ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
càng làm tăng thêm giá trị pháp lý quốc tế của nguồn tư liệu có một không hai
này.
Các bộ chính sử của các
vương triều, các ghi chép của học giả, quan chức trong quá trình thi hành công
vụ, phản ánh khách quan trực tiếp hoạt động chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa
cũng là những tài liệu có giá trị đặc biệt. Một trong những tư liệu loại này là
mộc bản sách Đại Nam thực lục. Bộ Đại Nam thực lục (Tiền biên và Chính
biên) là bộ quốc sử thời Nguyễn, do nhà vua trực tiếp chỉ đạo Quốc sử quán tổ
chức biên soạn trong suốt gần một thế kỷ, từ những năm đầu triều vua Gia Long
cho đến năm Đồng Khánh thứ 3 (1888). Khi biên soạn xong, nhà vua cho khắc in và
bộ ván khắc nguyên gốc đó còn được lưu giữ đầy đủ tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia Đà Lạt. Năm 2007, UNESCO đã chính thức công nhận bộ ván khắc sách Đại Nam thực lục là Di sản tư liệu Thế
giới. Bộ sách này giới thiệu một cách hệ thống và chuẩn xác hầu hết các sự kiện
quan trọng nhất về hoạt động chủ quyền của các đời chúa Nguyễn và vua Nguyễn ở
Hoàng Sa và Trường Sa trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX.
Loại tư liệu bản đồ cổ
Việt Nam, không thể không nói đến Đại Nam
nhất thống toàn đồ tuy chưa tìm được bản gốc nhưng vẫn có tính tiêu biểu và
chính thức của nhà nước Việt Nam thời Minh Mệnh. Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ nước Đại Nam thống nhất vào khoảng
năm 1838, đánh dấu Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa (Trường Sa) là các quần đảo nằm
trong nước Đại Nam thống nhất.
Tư liệu ở các địa phương
bao gồm thư tịch cổ (bằng sắc, đơn từ, hương ước, văn bản hội khao lề thế lính,
văn khế, văn cúng, gia phả...), các di tích, di vật (đình, chùa, đền, miếu, nhà
thờ họ, bến cảng, thuyền bè, di tích, di vật khảo cổ...), các phong tục tập
quán, văn hóa, tín ngưỡng dân gian, ca dao, hò vè... phản ánh hết sức cụ thể và
sinh động trang lịch sử chủ quyền bi hùng của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Nguồn tư liệu này vốn vô cùng phức tạp và không dễ sử dụng, nhưng nếu được phân
tích, giám định một cách khoa học, cẩn trọng sẽ là nguồn tư liệu đầy sức thuyết
phục về chủ trương khai chiếm Biển Đông của các nhà nước Việt Nam đã được thực
thi một cách đầy đủ và trọn vẹn ở các địa phương trong nước, bởi chính những
người dân thường.
Nguồn tư liệu phương Tây
xuất hiện từ rất sớm, khách quan, khoa học và càng ngày càng minh chứng rõ ràng
hơn chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Chỉ tính riêng tư liệu bản
đồ, chúng ta cũng đã sưu tập được hàng trăm tấm có giá trị.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI đã
có một số bản đồ phương Tây vẽ về khu vực Đông Ấn có đánh dấu địa danh Pracel hay Paracels (Hoàng Sa) ở giữa Biển Đông và khu vực bờ biển phía tây
Pracel hay Paracels (tương đương với bờ biển miền Trung Việt Nam) được quan
niệm là Costa de Paracel (bờ biển
Hoàng Sa) nói lên mối quan hệ về chủ quyền của Vương quốc Chăm-pa và của Đàng
Trong (Cochinchine) thời chúa Nguyễn đối với các quần đảo giữa Biển Đông. Bước
sang thế kỷ XVII và nhất là thế kỷ XVIII, trong bối cảnh phát triển bùng nổ của
thương mại và công nghệ bản đồ, sự hiểu biết của người phương Tây về khu vực
Biển Đông cũng cụ thể và sâu sắc hơn, nhiều bản đồ đã thể hiện khá cụ thể vị
trí, đặc điểm địa lý và mối quan hệ chủ quyền của Paracels với khu vực Đàng
Trong. Tuy vậy, phải đến đầu thế kỷ XIX, khi Vương triều Nguyễn được thành lập
với sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa (bao gồm cả Trường Sa) một
cách đầy đủ, thật sự theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được phương Tây thừa
nhận và ca ngợi, bản đồ phương Tây mới chính thức xác nhận quần đảo Paracels
nằm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và thuộc về nước Việt Nam.
Tấm bản đồ Partie de la Cochinchine trong bộ Atlas Thế giới của Phillipe Vandermaelen
xuất bản tại Bruxelles năm 1827 đã vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí (kinh
độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và quan
trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine (Đàng
Trong) là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, đã minh
chứng một cách đầy đủ, rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Đặt trong mối quan hệ với bản đồ của các quốc gia khu vực xung quanh Biển Đông
được thể hiện trong tập châu Á và châu Đại Dương của bộ Atlas; so sánh đối
chiếu với các nguồn tư liệu bản đồ, thư tịch cổ của Việt Nam, Trung Quốc và
phương Tây khác xuất hiện trong khoảng những thập kỷ đầu thế kỷ XIX thì tấm bản
đồ này còn có giá trị kiểm chứng, làm tăng thêm giá trị khẳng định chủ quyền
của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa của toàn bộ hệ thống bản đồ, tư liệu mà
chúng ta đã tập hợp được.
Các nguồn tư liệu mà
chúng tôi mới chỉ giới thiệu được một phần rất nhỏ ở trên là hết sức phong phú,
đa dạng và thống nhất. Chẳng hạn nguồn thư tịch cổ Việt Nam (kể cả thư tịch
chính thức của các Nhà nước đương đại đến ghi chép của các quan chức, học giả,
các gia đình dòng họ, từ các bộ sử của vương triều đến công văn giấy tờ của Nhà
nước, các bộ địa lý lịch sử, các tập du ký, văn thơ...) nói đến chủ quyền của
Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa đều không mâu thuẫn với bản đồ cổ Việt Nam, tư
liệu ở các địa phương và cả nguồn tư liệu của các nước phương Đông và phương
Tây. Tư liệu khẳng định Trung Quốc không hề có chủ quyền ở khu vực Hoàng Sa,
Trường Sa cũng rất rõ ràng, không chỉ trong bản đồ và các văn bản chính thức
của các Nhà nước Trung Quốc khẳng định lãnh thổ truyền thống của Trung Quốc
không vượt quá đảo Hải Nam, các quần đảo bên ngoài phía dưới đảo Hải Nam hoặc
thuộc Man Di hoặc được chỉ định rõ hơn là thuộc Việt Nam hay Chiêm Thành. Điều
này hoàn toàn phù hợp với các nguồn tư liệu của Việt Nam cũng như thư tịch và
bản đồ cổ của phương Tây. Điều này đã phản ánh một cách khách quan và trung thực
quá trình từng bước nhận thức và khai chiếm Biển Đông, xác lập và thực thi chủ
quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới danh nghĩa nhà nước muộn nhất từ đầu thế kỷ
XVII và liên tục trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Đây là hình thức thiết lập
chủ quyền của Nhà nước trên một lãnh thổ vô chủ, không có liên quan gì đến chủ
quyền của quốc gia khác, nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ quốc gia, hoàn toàn phù
hợp với các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ của luật pháp quốc tế.

Bản đồ cổ Vương quốc Trung Hoa (The Kingdom of China) năm 1626, trong đó cho thấy biên giới Trung Hoa đến đảo Hải Nam. - Nguồn baokhanhhoa.com.vn
Sức mạnh tuyệt đối của bộ
tư liệu này chính là ở chỗ Việt Nam là nước duy nhất trong khu vực chiếm hữu
thật sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ khi chúng còn là vùng đất chưa có
chủ và đã thực thi chủ quyền của mình dưới danh nghĩa Nhà nước liên tục trong
nhiều thế kỷ một cách đầy đủ, trọn vẹn trong hòa bình và không hề gặp phải sự
phản đối hay tranh chấp của bất cứ một quốc gia nào.
Năm 1909, lợi dụng hoàn
cảnh Việt Nam đang bị mất chủ quyền về tay Pháp và Pháp lại chưa có điều kiện
với tay đến các vùng biển đảo xa xôi của vương quốc An Nam, Trung Quốc tự cho
mình là kẻ “khai sơn phá thạch”, tùy tiện đặt tên mới và tuyên bố chủ quyền ở
quần đảo Tây Sa (là quần đảo Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam từ mấy
trăm năm trước), mở đầu giai đoạn tranh chấp, tranh biện trên Biển Đông kéo dài
hơn một thế kỷ nay. Nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, trung thực, có trách
nhiệm và lương tâm, đánh giá đúng lịch sử khai phá, xác lập và thực thi chủ
quyền cho đến trước thời điểm xảy ra tranh chấp, tranh biện sẽ là cơ sở lịch sử
và pháp lý quan trọng nhất để hướng tới giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Hoàng
Sa, Trường Sa theo nguyên tắc cơ bản của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 (UNCLOS) cũng như góp phần xây dựng Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông
(COC) có tính ràng buộc pháp lý.
TS. Trần Đức Anh Sơn
Phó Viện
trưởng, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng