Năm 2020 là năm Việt Nam chính thức đảm
nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN lần thứ 03 trong chặng đường 25 năm gia nhập tổ chức
lớn nhất khu vực này. Thực tiễn 25 năm tham gia hợp tác ASEAN, Việt Nam đã nhận
thức được đầy đủ hơn về những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn, về quan
hệ giữa Việt Nam và ASEAN (đa phương và song phương) là bộ phận quan trọng
trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động
hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam; đồng thời có những đóng góp tích cực,
trách nhiệm đối với sự phát triển chung của Hiệp hội.
ASEAN và quá trình tham
gia của Việt Nam
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of
Southeast Asian Nations – ASEAN) được thành lập vào ngày 08/8/1967 trên cơ sở
Tuyên bố Băng – cốc, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của
khu vực, với 05 nước thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a,
Phi-líp-pin, Xing-ga-po và Thái Lan. Năm 1984, kết nạp thêm Bru-nây
Đa-rút-xa-lam. Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội vào ngày
28/7/1995. Năm 1997, ASEAN kết nạp Lào và Mi-an-ma. Năm 1999, Cam-pu-chia trở
thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành giấc mơ về một ASEAN bao gồm tất
cả các quốc gia Đông Nam Á. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong
cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại
những nước thành viên.

Sau 53 năm hình thành và phát triển với
nhiều thăng trầm, ASEAN đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với việc
hình thành cộng đồng ASEAN vào năm 2015, là dấu mốc lịch sử của tiến trình liên
kết khu vực Đông Nam Á. ASEAN cở bản sẽ trở thành một thị trường chung, bao gồm
khoảng 600 triệu dân với tổng GDP khoảng 3000 tỷ USD, là nền kinh tế lớn thứ 5
thế giới, tạo nên một không gian sản xuất tương đối đồng bộ, giúp phát huy lợi
thế chung của khu vực ASEAN. ASEAN đã và sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng đối
với hòa bình, ổn định và hợp tác vì phát triển ở khu vực; mang lại những lợi
ích quan trọng và thiết thực cho từng thành viên, nhất là tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN
vào ngày 28/7/1995 nhân dịp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứu 28 ở Brunei
sau quá trình chuẩn bị lâu dài và tham gia tích cực các hoạt động của ASEAN.
Đây là bước đi đầu tiên mang tính đột phá của tiến trình hội nhập khu vực và quốc
tế của Việt Nam. Với phương châm “tích cực, chủ động và có trách nhiệm”, Việt
Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển và thành công của Hiệp hội.
Ngay sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy kết nạp các nước còn
lại trong khu vực nhằm hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm cả 10 nước Đông
Nam Á.
Trong quá trình 25 năm tham gia Hiệp
hội, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm, đóng vai trò
nòng cốt trong việc xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và hình thành
các quyết sách lớn của ASEAN như Tầm nhìn 2020 và các kế hoạch triển khai Tầm
nhìn, Hiến chương ASEAN, Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và nhiều thỏa
thuận quan trọng khác, trong đó có kết nối và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Đặc biệt, Việt Nam đã 02 lần hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN
năm 1998, 2010 và đang đương nhiệm Chủ tịch ASEAN 2020 với nhiều kết quả bước
đầu thuận lợi; qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới.
Kết quả và những triển
vọng trong thời gian tới
Quá
trình 25 năm gia nhập ASEAN những lợi ích quan trọng và thiết thực, giúp đảm bảo
môi trường hòa bình và ổn định thuận lợi cho an ninh và phát triển của đất nước,
hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng
hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Thể hiện
rõ qua các lĩnh vực sau:
-
Về chính trị - an ninh: Bảo
đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
(giúp Việt Nam phá thế bị bao vây và cô lập khi đó; giải quyết cơ bản những vấn
đề tồn tại do lịch sử để lại trong quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á; tạo
dựng mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên ASEAN cả về song phương
và đa phương), trong đó có việc tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước
trong việc xử lý những thách thức đối với an ninh và phát triển, nhất là trong
việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông.
- Về kinh tế:Thông
qua liên kết kinh tế nội khối ASEAN và các thỏa thuận Thương mại tự do giữa
ASEAN với các Đối tác, Việt Nam có thể tiếp cận thuận lợi hơn các thị trường
trong và ngoài khu vực, tăng cường thu hút đầu tư và mở rộng quan hệ thương mại
quốc tế.
- Về văn hóa
– xã hội: Việt Nam có cơ hội tiếp nhận được thông tin, khoa học công nghệ,
kinh nghiệm quản lý hiện đại và nguồn lực; nâng cao năng lực thể chế và khả
năng xử lý các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh, biến
đổi khí hậu; đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, tạo chuyển biến
tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong
nước cho phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Về quan hệ
đối ngoại: Tư cách thành viên ASEAN tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng
và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng
như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực rộng
lớn hơn; qua đó, góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Trong
năm 2020, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN với Chủ
đề “ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng” đã thể hiện ý tưởng củng cố khối đoàn
kết, thống nhất và sức mạnh nội tại của ASEAN, tăng cường kết nối về kinh tế, đề
cao ý thức cộng đồng và bản sắc ASEAN, gắn bó người dân và lấy người dân làm
trung tâm. Qua đó, chủ đề cũng đã phản ánh nhu cầu của ASEAN và vai trò Chủ tịch
của Việt Nam là nâng cao tính chủ động, sáng tạo và khả năng thích ứng trước những
thời cơ và thách thức do những chuyển biến lớn trong cục diện khu vực và thế giới.
LÊ HƯƠNG (tổng hợp)